Ké đầu ngựa: Loại dược liệu có nhiều tác dụng chữa bệnh

0
329

Ké đầu ngựa là vị thuốc được dùng nhiều trong y học cổ truyền nước ta. Ké đầu ngựa có công dụng: Tiêu độc, chữa mụn nhọt, chống lở loét, an thần, hạ huyết áp, đau khớp, bướu cổ (quả sắc uống, cả cây).
Tìm hiểu chung

Tên gọi, danh pháp

Tên tiếng Việt: Ké đầu ngựa (Quả).

Tên khác: Xương nhĩ; thương nhĩ tử; thương nhĩ; mac nháng; phắc ma…

Tên khoa học: Xanthium strumarium L.

Đặc điểm tự nhiên

Cây thảo, sống hàng năm, cao 50 – 80 cm, ít phân cành. Thân cây hình trụ, cứng, có khía, màu lục, có những đốm màu nâu tím, có lông cứng.

Lá mọc so le, hình tim – tam giác, dài 4 – 10 cm, rộng 4 – 12 cm, chia 3 – 5 thùy, mép khía răng không đều, có lông ngắn và ở cả hai mặt, gân chính 3; cuống lá dài 10 cm, có lông cứng.

Cụm hoa mọc ở đầu cành hoặc kẽ lá, màu lục nhạt, gồm hai loại đầu, cùng gốc.

Quả bế đôi, hình trứng, có hai sừng nhọn ở đầu và phủ đầy gai góc, dài 12 – 15mm, rộng 7mm.

Mùa hoa quả: Tháng 5 – 8.

Cây Ké đầu ngựa

Cây Ké đầu ngựa

Phân bố, thu hái, chế biến

Cây ké đầu ngựa này mọc hoang ở nhiều nơi tại Việt Nam (đất hoang, bờ ruộng, bờ đường). Khi thu hoạch người ta hái cả cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô hoặc chỉ hái quả chín rồi đem phơi hay sấy khô. Quả Ké đầu ngựa thu hái khi chưa ngả màu vàng, phơi hoặc sấy khô.
Ké đầu ngựa có nguồn gốc ở châu Mỹ, sau lan ra khắp các vùng cận nhiệt đới châu Á, châu Phi và cả ở châu Âu. Ở châu Á, ké đầu ngựa phân phố từ Ấn Độ, Trung Quốc đến các nước vùng Đông Dương, Đông Nam Á và Nam Á khác ở Việt Nam.

Bộ phận sử dụng

Bộ phận sử dụng của Ké đầu ngựa là quả và toàn bộ phần trên mặt đất.

Cây Ké đầu ngựa 5Quả Ké đầu ngựa

Thành phần hoá học

Cây Ké đầu ngựa chứa iod với hàm lượng khá cao: 1 gam lá hoặc thân chứa trung bình 200 µg, 1 g quả chứa 220 – 230 µg iod.

Phần trên mặt đất chứa 2 – hydroxytomentosin – 1β, 5β – epoxyd (Malik Mangel S. Vaf cs, 1992; CA 118: 143476a).

Quả chứa nhiều sesquiterpen lacton: Xanthinin, xanthumin, xanthatin, xanthol, isoxanthol.

Quả ké đầu ngựa non chứa nhiều vitamin C và các glucose, fructose (7,2%) sucrose (4,9%) acid hữu cơ phosphatid, kali nitrat, β-sitosterol, -sitosterol, β-D glucosid của β-sitosterol gọi là strumarosid (β-D glucosid có tác dụng chống viêm).

Quả còn chứa tetrahydroxyflavon và stigmasterol. Hạt ké đầu ngựa là nguồn nguyên liệu có dầu béo với tỷ lệ khá cao, nếu chiết bằng dung môi, thu được 30 – 35% một loại dầu bán khô tương tự dầu hướng dương (Helianthus annuus). Ké đầu ngựa Liên xô (trước đây) có tỷ lệ dầu béo là 41% có thể thu được 175 kg dầu trên 1 ha ké đầu ngựa. Dầu ké là một chất lỏng màu vàng nhạt, không mùi, có vị tương tự dầu thực vật.

Hạt còn chứa một số chất gây độc cho gia súc, trong đó có hydroquinon, cholin và một chất độc hơn chưa xác định. Ngoài ra, hạt Ké đầu ngựa còn có chứa xanthostrumarin và acid oxalic và một lượng iod đáng kể.
Bã còn lại sau khi chiết lấy dầu là nguồn nguyên liệu giàu N 8 -10%, acid phosphoric 3 – 3,5%.

Phần cứng của hạt dùng để chế tạo than hoạt tính. Phần này có 15,9% pentosan có thể dùng làm nguyên liệu tổng hợp furfural.

Trong lá, ngoài iod ra, còn có lượng vitamin C khá cao (7 mg/100g).

Rễ ké đầu ngựa chứa β-sitosterol, stigmasterol, campesterol và một glucosid tan trong nước với độ chảy 242o.

Ngoài ra, toàn cây ké đầu ngựa là nguồn phân hữu cơ rất tốt vì giàu đạm (30 – 40% nitrogen).

Công dụng

Theo y học cổ truyền

Theo tài liệu cổ ké có vị ngọt, tinh ôn, hơi có độc, quy kinh Phế, có tác dụng làm ra mồ hôi, tán phong, dùng trong các chứng phong hàn, đau nhức, phong thấp, mờ mắt, chân tay co giật, tê dại, uống lâu ích khí…

Ké đầu ngựa chế thành viên chữa bướu cổ cho kết quả đạt trên 80%. Ngoài ra, theo tài liệu cũ thì Ké đầu ngựa có thể dùng để chữa những trường hợp như da xù xì màu đỏ như bị hủi. Hiện nay, nhiều vùng ở Việt Nam, Liên Xô cũ và Trung Quốc vẫn dùng Ké đầu ngựa uống để chữa mẩn ngứa, mụn nhọt và bướu cổ.

Theo y học hiện đại

Ké đầu ngựa có tác dụng làm giảm cường độ co bóp tim, giảm thân nhiệt và lợi tiểu.

Rễ ké đầu ngựa cho uống có tác dụng giảm đường huyết trên chuột cống trắng có đường huyết trên chuột cống trắng có đường huyết bình thường.

Ké đầu ngựa đã được chứng minh có tác dụng kháng histamin khi kết hợp với 15 loại dược liệu khác đã được chứng minh.

Hoạt chất xanthumin trong Ké đầu ngựa có tác dụng ức chế thần kinh trung ương.

Dung dịch cồn 95o chứa hoạt chất xanthinin với nồng độ 0,01 – 0,1 % có hoạt tính kháng khuẩn mạnh đối với các vi khuẩn gram âm và các nấm.

Ké đầu ngựa chứa β-sitosterol – β – D – glucosid có tác dụng chống viêm và là thành phần của những chế phẩm điều hòa hoạt động nội tiết, điều trị những bệnh niệu sinh dục ở người.

Quả ké đầu ngựaQuả ké đầu ngựa

Liều dùng & cách dùng

Ké đầu ngựa được dùng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc cao. Liều lượng dùng từ 10 – 16 gram mỗi ngày.

Bài thuốc kinh nghiệm

Chữa đau răng:

Sắc nước quả Ké đầu ngựa, ngậm lâu trong miệng sau đó nhổ bỏ. Ngậm nhiều lần.

Mũi chảy nước trong, đặc:

Quả Ké đầu ngựa sao vàng, tán bột. Mỗi ngày uống 4 – 8 g.

Chữa thủy thũng, bí tiểu tiện:

Tán nhỏ 2 vị thuốc thương nhĩ tử thiêu tồn tính và đình lịch. Uống với nước mỗi lần 8g, ngày uống hai lần.

Chữa bướu cổ:

Quả hay cây Ké đầu ngựa sắc với nước. Đun sôi, giữ sôi 15 phút, ngày uống 4 – 5 quả.

Chữa thấp khớp, viêm khớp:

Bào chế thành chè thuốc các vị thuốc: Ké đầu ngựa 20 g, vòi voi 40 g, lá lốt 20 g, ngưu tất 10 g, hãm nước sôi, chia nhiều lần uống trong ngày.

Ké đầu ngựa 12 g, rễ cỏ xước 40 g, hy thiêm 28 g, thổ phục linh 20 g, cỏ nhọ nồi 16 g, ngải cứu 12 g. Sao vàng, sắc đặc uống. Dùng 7 – 10 ngày.

Chữa phong thấp, tê thấp, tay chân co rút:

Quả ké đầu ngựa 12g. Giã nát rồi sắc uống.

Chữa đợt cấp của viêm đa khớp tiến triển:

Ké đầu ngựa 12 g, ngưu tất 16 g, hy thiêm 16 g, thổ phục linh 12 g, cành 12 g, tỳ giải 12 g, cà gai leo 12 g, lá lốt 10 g. Sắc uống mỗi ngày 1 thang.

Chữa phong thấp đau khớp, tê bại đau buốt nửa người, hoặc chân tay lở ngứa ra mồ hôi, viêm xoang chảy nước mũi, đau trước trán hay đau ê ẩm trên đỉnh đầu:

Ké đầu ngựa 12 g, kinh giới 8g, bạch chỉ 8 g, xuyên khung 6 g, thiên niên kiện 6 g. Sắc uống.

Chữa chứng phong khí mẩn ngứa:

Lá ké đầu ngựa tán bột 8 g, uống với rượu ngâm đậu đen. Cùng với đó dùng ngoài song song: lá ké đầu ngựa, lá bồ hòn, lá nghể răm, lá thuốc bỏng, nấu nước để xông và tắm.

Chữa phong hủi:

Ké đầu ngựa giã vắt lấy nước cốt, cô thành cao, làm thành thỏi, 320 g. Lấy một con cá quả mổ bụng, không bỏ ruột, cho vào một thỏi thuốc, nấu chín với rượu mà ăn. Ăn 3 – 5 con, thì có hiệu quả. Kiêng muối 100 ngày (Hải Thương Lãn Ông).

Lá ké đầu ngựa, lá đắng cay, lá thầu dầu tía, củ khúc khắc, mỗi vị 12 g, lá khổ sâm, lá hoa hồng, lá thanh cao kinh giới, xà sàng, bạch chỉ, mỗi vị 8 g, nam sâm 4 g. Sắc uống.

Chữa chảy máu cam:

Ké đầu ngựa, thanh cao, mã đề, giã nát vắt lấy nước cốt uống.

Lưu ý

Khi dùng những bài thuốc trên nên kiêng thịt lợn, do khi dùng chung thì cơ thể sẽ bị nổi quầng đỏ.