Cây ô rô: Thuốc nhuận gan, giảm đau

0
47

Ô rô (Acanthus ilicifolius L.) thuộc họ ô rô (Acanthaceae). Nhiều bộ phận của cây ô rô được dùng làm thuốc theo kinh nghiệm dân gian, trong đó đặc biệt là có tác dụng làm nhuận gan.

Tên khác là ô rô gai, ô rô nước, ắc ó, lão thử lặc, là một cây nhỏ, cao 0,5-1,5m. Thân tròn nhẵn, màu lục nhạt, có lấm tấm đen. Lá mọc đối, không cuống, phiến cứng, hình mác, dài 15-20cm, rộng 4-8cm, gốc tròn, đầu nhọn sắc. Cây mọc hoang chủ yếu thành từng đám lớn bên bờ các kênh rạch và trên đất lầy thụt ở cửa sông thông ra biển; rải rác ở các ao hồ và vùng đồng chiêm trũng.

Cả cây thu hái quanh năm, cắt rễ để riêng, rửa sạch, thái ngắn, phơi hoặc sấy khô. Dược liệu có vị mặn, hơi chua, đắng, tính hàn, không độc.

Chữa đau gan, vàng da, trúng độc: Lấy 500g ô rô phối hợp với 500g vỏ cây quao nước, cắt nhỏ, sao vàng, cho vào thùng nhôm. Đổ vào 3 lít nước, nấu còn 1 lít. Lọc lấy nước thứ nhất. Tiếp tục đun với 2 lít nước  nữa cho đến khi được 500ml. Lọc lấy nước thứ hai. Trộn hai nước lại, cho 400g đường trắng vào.  Cô đặc còn một lít. Đổ 40ml rượu có hòa 1g acid benzoic. Ngày uống hai lần, mỗi lần một thìa canh. Thuốc đã được sản xuất dưới dạng biệt dược gọi là Ô rô-quao, có bán ở thị trường đông dược các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Chữa ho đờm, hen suyễn: Ô rô 30g, thái nhỏ, ninh nhỏ lửa với thịt lợn nạc 60-120g và nước 500ml cho sôi kỹ đến khi còn 150ml. Uống làm 2 lần trong ngày.

Rễ: Cạo sạch lớp vỏ ngoài, rửa sạch, thái mỏng, phơi hay sấy khô, khi dùng để sống hoặc sao vàng, sao cháy. Dược liệu có vị mặn, đắng, tính hàn, có tác dụng giảm đau, lợi thủy, trừ thấp, chống viêm.

Chữa thấp khớp, đau lưng, nhức xương, tê bại: Rễ ô rô 30g, canh châu 20g, rễ cây kim vàng 8g, quế chi 4g. Tất cả thái nhỏ, tẩm rượu, sao vàng, sắc với nước, uống làm hai lần vào lúc đói.

Chữa nước tiểu vàng, táo bón: Rễ ô rô 30g, vừng đen 20g, lá muồng trâu 18g. Vừng giã nát, hai vị kia thái nhỏ, rồi trộn đều sắc uống trong ngày.

Chữa rong huyết: Rễ ô rô 30g, thái nhỏ, sao với giấm cho cháy đen, bồ hoàng 20g sao cháy tồn tính; hoa kinh giới 18g, sao cháy tồn tính; sắc uống ngày 1 thang. Dùng nhiều ngày.

Chữa ứ huyết: Rễ ô rô 30g, lá tràm 20g, sắc uống.

Hoa: Thu hái khi mới nở. Lấy 20g, tẩm mật ong hoặc mật mía rồi sao đến khô. Sắc uống làm hai lần trong ngày, chữa ho gà.

Lá và búp non: Thu hái vào mùa xuân hạ, rửa sạch, lấy 50g, giã nát, thêm nước, gạn uông, bã đắp chữa rắn cắn.